Ông tâm huyết nhất với đổi thay nào trong Dự thảo Nghị định này? Trước đây, những hộ ở khu vực thị trấn, phường thuộc thị xã nhưng vẫn sản xuất nông nghiệp lại không được đưa vào đối tượng điều chỉnh chính sách. Nguyên do trên thực tế trong thời kì vừa qua chúng ta có đổi thay lại địa phận hành chính nên có những vùng trước đây là nông thôn thì nay tự dưng trở thành tỉnh thành. Thực tế ở những nơi đó bà con vẫn là nông dân, nhưng vì được nâng cấp về mặt hành chính lên thị thành thành ra không được vay theo Nghị định 41. Đây là một trong những bất cập lớn nhất trong triển khai Nghị định 41. Điều này đã được khắc phục tương đối tốt tại Dự thảo Nghị định mới khi cho phép các hộ chỉ cần tham gia hoạt động sản xuất kinh doanh nông nghiệp là chính có thể được cấp tín dụng mà không cần tại địa bàn nông nghiệp. Đồng thời, việc tăng hạn mức cho vay cũng có ý nghĩa tất yếu đối với bà con nông dân. Như mức cho vay tối đa không có đảm bảo bằng tài sản đối với cá nhân, hộ gia đình trú ngụ tại địa bàn là 100 triệu đồng thay vì 50 triệu đồng như quy định cũ. Có thể số tiền được vay tăng thêm 50 triệu đồng đối với các đối tượng là DN thì không có nhiều ý nghĩa thực tại, nhưng với bà con nông dân thì đây là nguồn lực được tăng thêm rất lớn. Nhờ số tiền tăng thêm này có thể giúp họ mở rộng trồng trọt hay chăn nuôi tăng thu nhập, ổn định cuộc sống. Mà bà con nông dân rất có ý thức trong việc thực hiện nghĩa vụ trả nợ nên tỷ lệ nợ xấu tương đối thấp. Theo tôi, chúng ta phải đi tìm mọi ngóc ngách của vấn đề để đưa ra hướng đi ăn nhập vào hiệu quả. Những đổi mới trên là rất cấp thiết, nhất là khi 70% dân số nước ta vẫn hoạt động sản xuất trong lĩnh vực NNNT thì sự thay đổi này tác động rộng lớn không chỉ đời sống của bà con dân cày mặc cả tổ quốc. Theo ông, việc tính toán trích lập rủi ro thế nào để khuyến khích các NH tích cực cho vay NNNT? Trong điều kiện hiện nay, nợ xấu cao, các NH trích lập ngừa rủi ro tương đối lớn. Mà đối với cho vay lĩnh vực NNNT tuy có nhiều rủi ro do các nhân tố khách quan như bệnh dịch, thiên tai… nhưng tỷ lệ nợ xấu lại thấp so với các lĩnh vực khác. Mặt khác, dù không coi là tài sản thế chấp nhưng việc người nông dân giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho NH cũng có thể được tính tình là tài sản thế chấp bằng bất động sản. Như vậy, mức trích đề phòng của NH sẽ giảm đi. Theo đó, vừa giảm hoài cho NH vừa không làm giảm tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu của các NH. Có như vậy mới khuyến khích NH cho vay NNNT. Vì thế, trong điều kiện hiện nay, chúng ta nên linh hoạt chứ không nên quá cứng nhắc mới có người mạnh bạo làm. Trong trường hợp không điều chỉnh mức trích lập ngừa được thì tôi nghĩ cũng nên có chính sách ưu đãi cho Agribank khi khai triển nghị định này, vì đây là NH cho vay NNNT chủ lực, như ưu đãi chính sách thuế thu nhập DN… Theo Dự thảo, người mua bảo hiểm nông nghiệp được giảm 0,1% mức lãi suất so với các khoản vay khác. Như vậy có khuyến khích người nông dân mua bảo hiểm? Tôi nghĩ đây là quy định khá cần thiết đối với các NH, song song cũng là động lực khuyến khích bà con dân cày mua bảo hiểm nông nghiệp. Có thể NH chịu thiệt một chút về tổn phí lãi suất, nhưng ngược lại giảm thiểu được nhiều rủi ro. Trước đây khách hàng không mua bảo hiểm nông nghiệp thì toàn bộ rủi ro của khách hàng khi không trả được nợ NH phải chịu hết. Giờ được phân tán nhờ có bảo hiểm rủi ro, NH cũng không phải quá lo về hình sự hóa quan hệ kinh tế. Xin cảm ơn ông! Theo: Thoibaonganhang.Vn |